Vị thế người phụ nữ qua các thời kỳ lịch sử

Thứ năm - 26/09/2019 23:40

Tác giả bài viết: Trịnh Thu Trang - GV Khoa Nhà nước và Pháp luật

Nguồn tin: Khoa Nhà nước và pháp luật

Trong suốt quá trình phát triển của nhân loại nói chung và đất nước ta nói riêng, người phụ nữ luôn đóng vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời. Bên cạnh việc gìn giữ, phát huy vai trò “giữ lửa” trong mỗi gia đình, phụ nữ còn tích cực học tập, lao động, sản xuất, tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động xã hội và có những đóng góp ý nghĩa

Phụ nữ khẳng định vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực hoạt động, như chính trị gia nổi tiếng, nhà lãnh đạo tài ba của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn, nhà khoa học xuất sắc, xứng đáng với danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.


      Từ thuở sơ khai, địa vị của người phụ nữ đã được đề cao và coi trọng hơn hẳn so với người đàn ông, tiêu biểu là thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ. Trong xã hội này, quyền của người đàn bà được biểu hiện trước hết là quyền được phân công lao động trong gia đình và quyền điều hành những công việc chung của thị tộc. Vì thế, họ không những được bình đẳng, được tôn trọng mà còn có thể được bầu làm tộc trưởng, tù trưởng. Vì sao lại có sự tôn trọng đặc biệt dành cho người phụ nữ như vậy? Bởi vì, những đứa con được sinh ra bởi người phụ nữ; việc hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi lúc bấy giờ cũng được người phụ nữ đảm nhận; qua đó, họ nắm quyền chi phối về mọi mặt của xã hội, điều khiển công việc và điều hòa quan hệ giữa các thành viên.

      Theo dòng thời gian, lịch sử cũng dần thay đổi, xã hội thị tộc mẫu hệ nhường chỗ cho xã hội phụ hệ. Tiêu biểu cho xã hội này ở nước ta, đó là thời kỳ phong kiến, lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công lao động, cho đến quyền quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.

      “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”

      Sự phục vụ của phụ nữ lúc bấy giờ bị xem như là một điều hiển nhiên và tất yếu. Không ai cảm thấy biết ơn cho sự hy sinh to lớn của họ, thậm chí, chính bản thân người phụ nữ cũng bị tư tưởng ấy đồng hóa mà quên đi giá trị đích thực của mình.

      Ngay ở thời kỳ này, trong những giai đoạn mà sử cũ gọi là “Bắc thuộc”, với những chặng đường vô cùng oanh liệt dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ truyền thống thông minh, sáng tạo, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm. 

      Vượt lên trên cái phận đàn bà “ba chìm, bảy nổi”, thoát ra khỏi cái lẽ “nữ nhi thường tình”, người phụ nữ Việt Nam nuôi giữ trong mình một ý chí sắt đá, một tinh thần quật cường bất khuất, càng được khắc họa rõ nét trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Họ từ những người mẹ, người vợ tảo tần sớm tối, bỗng chốc hóa thành người chiến sỹ chống ngoại xâm kiên cường, sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc oai hùng.

      Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã được xây dựng và lưu truyền: mẹ Âu Cơ đưa các con đi mở nước và dạy dân dựng làng; bà mẹ Gióng kiên trì nuôi đứa con “Chậm lớn, chậm đi” và giúp con lên đường đánh giặc; nàng Quế Hoa, cô gái dùng đá làm vũ khí, tung hoành giữa đám giặc Ân; Đó là hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu Thị Trinh, hay Bùi Thị Xuân,...trong thời kỳ chống Bắc thuộc; đó là Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế,...trong hơn 60 năm thực dân Pháp đô hộ...

      Hồ Chủ tịch đã từng nói: “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do người phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”[1].

      Kế thừa tinh thần đó, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đề ra những kế hoạch và chính sách thiết thực nhằm bồi dưỡng, nâng cao vị thế của người phụ nữ không chỉ ở gia đình mà còn trong xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế cũng như đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam được tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo. Họ tham gia một cách tích cực vào công tác quản lý, lãnh đạo, chính trị, những công việc mà trước đây nam giới chủ yếu nắm giữ. Có thế kể đến, đó là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, một nữ chính khách, nữ chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước ta; bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng bộ y tế; bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội,...

      Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta thuộc vào loại cao nhất thế giới. Các nữ trí thức là nhà khoa học, đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao, với số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ gần 4%, phó giáo sư hơn 6%, tiến sĩ khoa học hơn 5%, tiến sĩ gần 13%... Ngoài ra còn có gần 20 nữ Anh hùng lao động, và nhiều nhà khoa học xuất sắc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa.

      Hiến pháp năm 2013, so với Hiến pháp năm 1992, đã có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của phụ nữ. Theo đó, mọi người (cả nam và nữ) đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn, hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Đặc biệt, nếu Hiến pháp năm 1992, Điều 63 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, đã được mở rộng và làm sâu sắc hơn. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

      Có thể khẳng định, Hiến pháp nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, luôn tôn trọng nguyên tắc “bình đẳng và ưu tiên” đối với người phụ nữ, xóa bỏ đi những sự bất công còn tồn tại và tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ phát triển khả năng của mình, cũng như có thể hoàn thành tốt vai trò với gia đình và xã hội.

       Như vậy, dù là trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, phụ nữ luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng, là những người giữ lửa của gia đình, và là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là linh hồn của những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc xưa nay.

      Trong thời đại mới, người phụ nữ Việt Nam tiếp tục nâng tầm năng lực và phẩm chất của mình, đoàn kết, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác và học tập để có thể đáp ứng yêu cầu của thời đại mới_thời đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu, xứng đáng với tám chữ: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”.

 


[1] Bác Hồ viết trong thư gởi phụ nữ nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 năm 1952

Tổng số điểm của bài viết là: 59 trong 15 đánh giá

Xếp hạng: 3.9 - 15 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

baove
 
pc dbhb
 
hcmaa

kontum
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây