Những nội dung cốt lõi được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XIII)

Thứ tư - 15/02/2023 20:10

Tác giả bài viết: Ths. Nguyễn Anh Định - Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật

      Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII được tổ chức từ ngày 3 đến ngày 9-10-2022. Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất cao thông qua các nghị quyết và kết luận của Hội nghị. Cụ thể: Hội nghị đã ban hành 3 nghị quyết, 1 kết luận gồm: Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận số 45-KL/TW, ngày 17/11/2022 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là những quyết sách quan trọng của Đảng, đề cập đến nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước, vừa cơ bản, vừa cấp bách và là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.
      1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
      Thực trạng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến hiện nay được Đảng ta đánh giá: “Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới”[1]. Nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu rất quan trọng như: “Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ, sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản...; Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực...; Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế...”[2].
      Tại Hội nghị, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;... Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...; Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật...; Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tự đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt nam...; Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp...”[3].
      Đề ra các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó, nhấn mạnh 03 trọng tâm là “hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật...; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực...; đẩy mạnh cải cách tư pháp...”[4].
      Thông qua 10 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể sau: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững; Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc Hội; Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
      2. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới
      Đảng ta tiếp tục kiên định với quan điểm “vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ;... Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc... kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng... Phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng...”[5]. Nhằm hướng tới mục tiêu “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới... Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật... Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ. Xây dựng phương pháp, công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở”[6].
      Để thực hiện các mục tiêu trên, Hội nghị đã nêu ra 6 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần triển khai sau: Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.
      3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
      Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 36 năm đổi mới, tuy quá trình này còn một số hạn chế nhất định nhưng nhìn chung việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong 10 năm 2011 – 2020: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình; ...Đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế; ...đã góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại; Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; đã hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học - công nghệ cao...”[7]. Do đó trong thời gian tới Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa “là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị”[8],...
      Từ đó, đề ra các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 “Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á”[9]. Thông qua việc thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau: Đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; Phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Phát triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện đại hóa đất nước nhanh, bền vững; Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển kinh tế thị trường trong nước; Phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội.
      4. Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
      Đây là lần đầu tiên Đảng ta định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia, trong đó đã xác định rõ những nguyên tắc, quan điểm định hướng quy hoạch cụ thể của đất nước trong thời gian tới. Đảng nhấn mạnh những điểm quan trọng sau:
      Thứ nhất, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, đảm bảo liên kết vùng, nội vùng, nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, nhằm huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi và tiềm năng, lợi thế để phát triển thành những vùng động lực, thành những hành lang kinh tế, thành những cực tăng trưởng để tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả...
      Thứ hai, Quy hoạch tổng thể quốc gia phải sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất, tài nguyên nước nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo về tài thiên nhiên, nâng cao chất lượng đa dạng sinh học để chủ động phòng, chống thiên tai và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
      Thứ ba, định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia của Trung ương nhấn mạnh  phải cân đối, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh; tổ chức không gian phát triển quốc gia, từng vùng lãnh thổ, từng hành lang kinh tế và hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ hầng đồng bộ, hiện đại; phát triển một cách hài hòa giữa đô thị với nông thôn... Nhất là gắn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của quốc gia.
      Thứ tư, Quy hoạch tổng thể quốc gia cần tập trung ưu tiên hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới; hình thành và phát triển các vùng động lực, các hành lang kinh tế; kết nối hiệu quả các đầu mối giao thương, đô thị, trung tâm kinh tế...
 
[1]   Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.9.
[2] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.7,8.
[3] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.10-12.
[4] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.15.
[5] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.45,46.
[6] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.47,48.
[7] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.65,66.
[8] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.69.
[9] Tài liệu học tập Các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.73.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

baove
 
pc dbhb
 
hcmaa

kontum
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây